header

TỈ SỐ SINH ĐẺ

Theo Bản Điều Chỉnh 1988 về ước chừng và dự phóng dân số chính thức của Liên Hiệp Quốc, tổng tỉ lệ sinh (TFR) được ước chừng, trong giai đoạn từ 1995 -2000, là bằng hoặc dưới mức 2.1 con cho một phụ nữ tại 61 quốc gia hay khu vực trên toàn thế giới (Bảng 1) –nghĩa là, nhiều hơn 10 trong khoảng 1990-1995. Dân số cộng lại của 61 quốc gia này (2.6 tỉ năm 1998) tương đương 44% dân số toàn cầu.

Bảng 1. Tổng tỉ lệ sinh trong các quốc gia với mức sinh dưới sự thay thế.

Phạm vi tổng tỉ lệ sinh trong giai đoạn 1995-2000
2.10 – 1.80
Reunion2.10
Sri Lanka2.10
Iceland 2.10
TFYR Macedonia 2.06
Dem. People's Rep. of Korea 2.05
Cyprus 2.03
New Zealand 2.01
Azerbaijan 1.99
United States of America 1.99
Georgia 1.92
Mauritius 1.91
Ireland 1.90
Guadeloupe 1.90
Malta 1.89
Norway 1.85
Yugoslavia 1.84
China 1.80

Phạm vi tổng tỉ lệ sinh trong giai đoạn  1995-2000
1.79 - 1.50

Australia 1.79
Republic of Moldova 1.76
Martinique 1.75
Thailand 1.74
Finland 1.73
Denmark 1.72
United Kingdom 1.72
France 1.71
Armenia 1.70
Singapore 1.68
Luxembourg 1.67
Republic of Korea 1.65
Trinidad and Tobago 1.65
Sweden 1.57
Croatia 1.56
Belgium 1.55
Cuba 1.55
Canada 1.55
Poland 1.53
Netherlands 1.50
Barbados 1.50
Phạm vi tổng tỉ lệ sinh trong giai đoạn 1995-2000
Ít hơn 1.50
Switzerland 1.47
Japan 1.43
Lithuania 1.42
Austria 1.41
Macau 1.40
Slovakia 1.39
Ukraine 1.38
Hungary 1.37
Portugal 1.37
Belarus 1.36
Bosnia and Herzegovina 1.35
Russian Federation 1.34
China, Hong Kong SAR 1.32
Germany 1.30
Estonia 1.28
Greece 1.28
Slovenia 1.26
Latvia 1.25
Bulgaria 1.23
Italy 1.20
Czeck Republic 1.19
Romania 1.17
Spain 1.15

Trong thực tế, các nước ở  những vùng phát triển hơn, khả năng  sinh đẻ là đáng kể dưới mức cần thiết cho việc thay thế các thế hệ (TFR gần 2.1). Trong số 20 nước thuộc nhóm các quốc gia đã phát triển hơn, TFR đứng ở  mức dưới sự thay thế ít  là 2 thập kỷ. Thập niên 1980-1990,  việc sinh đẻ đã giảm tới những mức dưới sự thay thế trong một vài nước từ những vùng kém phát triển, bao gốm các nước trong khu vực  đông dân của Đông Á (trừ Mông Cổ). Việc chuyển đổi khả năng sinh đẻ nhanh trong khu vực  Nam- đông Á , Châu Mỹ La tin và Trung Mỹ (Caribbean) đưa một con số gia tăng các nước đang phát triển đến gần ngưỡng cửa đó: hiện nay TFR là dưới 3 (nhưng cao hơn so với 2.1) và giảm ở 34 nước  với tổng dân số 930 triệu người.

Trong khi suy giảm khả năng sinh đẻ tạo nên nguyên nhân duy nhất của sự chậm lại đà gia tăng dân số thế giới và là nguyên nhân chính của sự lão hóa dân số, ảnh hưởng của nó thay đổi  qua các vùng và các nước – về cơ bản phụ thuộc vào tốc độ và chiều sâu của sự chuyển đổi nhân khẩu học. Theo sự biến chuyển tương đối của Bản Điều Chỉnh 1988, đà gia tăng dân số rất chậm và đang giảm tốc độ  ờ Bắc Âu trong qúy đầu tiên của thế kỷ 21 sẽ được theo bởi sự giảm đều đặn trong 2025-2050; tuy nhiên, khu vực này sẽ đối mặt với  một sự mất mát dân số tương đối nhỏ (4%). Tây Au sẽ bắt đầu kinh nghiệm đà gia tăng dân số tiêu cực sớm hơn và dân số của nó sẽ nhỏ lại 6.5%. Dân số của Đông và Nam Âu sẽ giảm sút trong suốt thời kỳ dự phóng ở mức độ cao và nhanh; khoảng  giữa thế kỷ, một cách tương ứng, các vùng này được đự đoán mất 18-20%  kích thước  1998.  Ngược lại, dân số tại  Đông Á, Bắc Mỹ và Úc Châu/Tân Tây Lan được dự kiến  tiếp tục gia tăng; sự phát triển tương ứng  vào năm 2025 sẽ là từ 15, 29 và 39%. Giữa 61 nước với sự sinh đẻ dưới mức thay thế, 30 nước sẽ cảm nghiệm dân số giảm sút khác nhau 1% ở Yugoslavia tới 35% ở Estonia, trong khi 31 nước còn lại, dân số sẽ tiếp tục gia tăng  vì cấu trúc dân số trẻ và vì dân  nhập cư.